Những điều cần biết về bệnh HIV/AIDS

Bởi supadmin -01-12-2025
Bệnh HIV/AIDS là vấn đề sức khỏe toàn cầu, xuất hiện từ đầu những năm 1970 đến nay và y học chưa thể chấm dứt hoàn toàn được. Và theo thường lệ, ngày 1 tháng 12 hằng năm mang tên gọi World AIDS Day – Ngày thế giới phòng chống AIDS nhằm kêu gọi mọi người nâng cao nhận thức về nạn dịch AIDS do lây nhiễm HIV và đồng thời là dịp để tưởng nhớ các nạn nhân đã chết vì HIV/AIDS.

1. HIV/AIDS là gì?

      HIV là tên viết tắt của virus gây suy giảm miễn dịch ở người. HIV lây nhiễm và tấn công các tế bào trong hệ thống miễn dịch như đại thực bào, tế bào lympho T khiến cơ thể không thể chống lại các bệnh cơ hội khác.

      AIDS là giai đoạn cuối cùng và nghiêm trọng nhất của nhiễm HIV. Người mắc AIDS có số lượng tế bào bạch cầu rất thấp và hệ thống miễn dịch bị tổn thương nghiêm trọng.Nếu không điều trị, nhiễm HIV sẽ tiến triển thành AIDS trong khoảng 10 năm.

2. HIV lây qua con đường nào?

      HIV có thể lây truyền qua 3 con đường chính gồm:

  • Qua đường quan hệ tình dục không an toàn: Bị máu, tinh dịch hoặc dịch tiết của người nhiễm HIV xâm nhập vào cơ thể khi quan hệ qua âm đạo, hậu môn hoặc miệng.
  • Qua đường máu: Dùng chung kim tiêm, các vật sắc nhọn có dính máu của người nhiễm HIV, truyền máu từ người nhiễm HIV.
  • Từ mẹ sang con: Mẹ nhiễm HIV có thể truyền virus sang con trong quá trình mang thai, sinh con hoặc cho con bú. Điều trị sớm bằng thuốc kháng virus giúp giảm đáng kể nguy cơ lây truyền virus sang đứa trẻ.

3. Đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh HIV/AIDS

      Bất kỳ ai cũng có nguy cơ bị nhiễm HIV/AIDS. Tuy nhiên, một số đối tượng sẽ nguy cơ sẽ cao hơn như:

  • QHTD không sử dụng bao cao su, có nhiều bạn tình.
  • QHTD qua đường âm đạo, hậu môn và đường miệng.
  • Có bạn tình nhiễm/nghi nhiễm HIV, hoặc các bệnh qua đường tình dục như bệnh chlamydia, lậu, giang mai…
  • Nam giới có QHTD qua đường hậu môn không an toàn với một người đàn ông khác.
  • Đang mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục như bệnh lậu, giang mai, sùi mào gà…
  • Nhiễm virus viêm gan B, viêm gan C.
  • Tham gia vào các hoạt động bán dâm, tiêm chích ma túy, chất gây nghiện… hoặc có bạn tình thuộc trường hợp này.
  • Dùng chung vật dụng sắc nhọn dễ gây chảy máu như bơm kim tiêm, dao cạo… với người nhiễm/nghi nhiễm HIV.
  • Vô tình bị kim hoặc vật sắc nhọn đâm vào người khi đến thăm khám tại các cơ sở y tế.
  • Tiếp xúc và làm việc với các nguồn máu: Y bác sĩ, kỹ thuật viên lấy máu và xét nghiệm máu, công an, quân đội…
  • Người mắc bệnh lao: Đã được khám lâm sàng và được xét nghiệm cận lâm sàng nhưng vẫn không phát hiện được nguyên nhân gây bệnh hoặc có các triệu chứng gợi ý nhiễm HIV.

4. Dấu hiệu nhận biết

      Tùy thuộc vào từng giai đoạn, người bệnh HIV/AIDS sẽ có nhiều biểu hiện khác nhau, rất khó để phân biệt trong giai đoạn sớm.

      Ở giai đoạn HIV cấp tính: Một số người bị nhiễm HIV sẽ phát bệnh với các triệu chứng giống như cúm trong vòng 2 đến 4 tuần sau khi virus xâm nhập vào cơ thể và có thể kéo dài trong vài tuần.

Các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm:

  • Sốt.
  • Đau đầu.
  • Đau cơ và đau khớp.
  • Phát ban.
  • Đau họng và lở loét miệng.
  • Sưng hạch bạch huyết, chủ yếu ở cổ.
  • Tiêu chảy.
  • Sụt cân bất thường.
  • Ho.
  • Đổ mồ hôi đêm.

      Những triệu chứng này có thể nhẹ đến mức người bệnh không nhận thấy được. Tuy nhiên, lúc này lượng virus trong máu khá cao do đó bệnh nhân ở giai đoạn cấp tính dễ mắc phải các bệnh nhiễm trùng hơn các giai đoạn tiếp theo.

      Ở giai đoạn HIV mạn tính: Virus HIV vẫn tồn tại trong cơ thể và trong các tế bào bạch cầu nhưng chịu tác động của hệ miễn dịch nên không gây ra triệu chứng rõ ràng như giai đoạn cấp. Sưng hạch bạch huyết là dấu hiệu dễ nhận thấy nhất của giai đoạn này. Giai đoạn mạn tính kéo dài từ vài tuần đến vài năm hoặc có thể lâu hơn phụ thuộc vào việc điều trị với thuốc kháng virus và hệ miễn dịch của từng cá thể.

      Ở giai đoạn AIDS: Khi AIDS xảy ra, hệ thống miễn dịch của cơ thể đã bị tổn hại nghiêm trọng. Cơ thể tăng nguy cơ mắc các bệnh thường không gây bệnh ở người có hệ thống miễn dịch khỏe mạnh, chúng được gọi là nhiễm trùng cơ hội hoặc ung thư cơ hội.

5. Chẩn đoản bệnh HIV/AIDS như thế nào

      Việc lựa chọn phương pháp sàng lọc cần phù hợp với từng giai đoạn nhiễm HIV, vì mỗi giai đoạn có mức độ virus, kháng thể và biểu hiện miễn dịch khác nhau. Trong đó, xét nghiệm kháng thể (như kit test) hoặc xét nghiệm kháng nguyên/kháng thể (như HIV Combo Ag+Ab) thường được sử dụng tại các cơ sở y tế để sàng lọc nhanh HIV.

  • Xét nghiệm kháng thể HIV: Xét nghiệm dựa trên cơ chế phát hiện kháng thể do cơ thể sinh ra để chống lại HIV. Phương pháp này có độ chính xác cao sau khoảng 3 – 12 tuần từ lúc phơi nhiễm. Tuy nhiên, xét nghiệm không thể phát hiện được bệnh trước khi có kháng thể HIV. Do đó nó có thể bỏ sót các trường hợp nhiễm HIV nếu xét nghiệm quá sớm.
  • Xét nghiệm kết hợp kháng nguyên và kháng thể HIV: Phổ biến nhất là xét nghiệm HIV Combo Ag+Ab. Phương pháp này có hiệu quả vượt trội giúp phát hiện đồng thời kháng nguyên p24 và kháng thể HIV-1/2 sau 15 ngày kể từ khi xác định lây nhiễm.

      Ngay cả khi kết quả xét nghiệm sàng lọc dương tính thì vẫn chưa đủ cơ sở để khẳng định đã nhiễm HIV. Do đó cần làm thêm xét nghiệm khẳng định để xác định chắc chắn tình trạng nhiễm bệnh.

      Hai phương pháp khẳng định HIV phổ biến là:

  • Xét nghiệm Western Blot (hoặc Immunoblot): Đây là một tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán HIV. Xét nghiệm giúp phát hiện các kháng thể đặc hiệu chống lại từng cấu trúc riêng biệt của virus HIV, từ đó khẳng định chính xác tình trạng nhiễm HIV.
  • Xét nghiệm PCR HIV: Phương pháp này phân tích ARN/ADN của virus HIV, giúp xác định nhiễm HIV ngay cả trong giai đoạn rất sớm khi kháng thể và kháng nguyên chưa xuất hiện đủ để được phát hiện. Xét nghiệm này đặc biệt hữu ích để khẳng định khi kết quả sàng lọc và Western Blot là không xác định, hay khi cần xác định nhiễm HIV ở trẻ sơ sinh.

6. HIV/AIDS có đáng sợ không, biến chứng nguy hiểm như thế nào?

      Nhờ cấu trúc đặc biệt phức tạp mà HIV có thể gây nhiều hậu quả sức khỏe nặng nề khi xâm nhập vào cơ thể. Khi miễn dịch suy yếu do bị HIV, cơ thể không còn khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh, dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như:

  • Mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội như: bệnh Lao, nhiễm nấm Candida, nấm Cryptococcus, nhiễm Toxoplasma gondii, … những bệnh nhiễm trùng này điều gây nguy hiểm đến sức khỏe, thậm chí đe dọa tính mạng người bệnh.
  • Những biến chứng nguy hiểm khác: các bệnh lý ung thư ( ung thư hạch, Kaposi Sarcoma, ung thư cổ tử cung,...), biến chứng suy nhược cơ thể mãn tính, các biến chứng lên hệ thần kinh(viêm não do HIV, sa sút trí tuệ, rối loạn nhận thức, viêm màng não vô khuẩn,...)

7. Các phương pháp điều trị HIV/AIDS

      Tất cả người nhiễm HIV cần được điều trị ưu tiên bằng thuốc kháng virus (ARV) chứa hoạt chất Dolutegravir (DTG) càng sớm càng tốt ngay sau khi có chẩn đoán dương tính. Đây là phác đồ điều trị chuẩn của Bộ Y Tế Việt Nam, không phụ thuộc vào giai đoạn lâm sàng hay số lượng tế bào TCD4+.

ARV là nhóm các thuốc (gồm nhiều loại thuốc khác nhau) có men sao chép ngược

      Trong trường hợp mắc các nhiễm trùng cơ hội hoặc bệnh đồng nhiễm HIV thì cần kết hợp điều trị thêm các bệnh lý này. Điều trị HIV không chỉ dùng thuốc mà còn bao gồm việc theo dõi thường xuyên để đánh giá chức năng gan, thận, hệ miễn dịch và tải lượng virus. Người bệnh cũng cần duy trì thói quen sống lành mạnh cùng chế độ ăn đủ dinh dưỡng. Đây là giải pháp tốt nhất giúp tăng cường đề kháng chống lại sự tấn công virus. 

8. Cách phòng tránh HIV

      Phương pháp phòng ngừa HIV tập trung vào việc hạn chế sự lây lan của virus, đặc biệt là qua đường tình dục.

  • QHTD an toàn có sử dụng bao cao su.
  • Không QHTD với nhiều đối tác và những người chưa rõ lai lịch.
  • Không tiếp xúc với nguồn máu lạ.
  • Tránh ma túy hoặc chất gây nghiện có thể ảnh hưởng đến sự tỉnh táo và khả năng kiểm soát của bản thân về các hoạt động tình dục.
  • Tránh dùng chung kim tiêm và ống tiêm đã được sử dụng bởi những người sử dụng ma túy.
  • Không đến những nơi tụ tập nhiều người nghiện, hút chích.
  • Chủ động kiểm tra sức khỏe và xét nghiệm sàng lọc HIV định kỳ.

      Chuyên gia y tế khuyến cáo nên sử dụng thêm thuốc chống phơi nhiễm HIV để bảo vệ bản thân tốt hơn. Thuốc dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) dành cho người có nguy cơ cao mắc bệnh. Thuốc dự phòng sau phơi nhiễm (PEP) dành cho đối tượng đã tiếp xúc với HIV mà không có biện pháp bảo vệ. Cả hai loại thuốc rất quan trọng trong việc phòng ngừa HIV và cần sử dụng đúng theo hướng dẫn y tế để tránh tác dụng phụ.

  • Đối với PrEP: Cần dùng thuốc trước chứ không chỉ sau mỗi lần có thể phơi nhiễm.
  • Đối với PEP: Tối ưu nhất là trong vòng ba ngày kể từ khi tiếp xúc với virus.

BS. Huỳnh Minh Nhựt - Khoa Nhiễm 

Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức